Thực trạng sử dụng tân dược sản xuất trong nước thuộc phạm vi thanh toán quỹ bảo hiểm y tế trong các bệnh viện công lập tại Việt Nam năm 2017
DOI:
https://doi.org/10.51403/0868-2836/2022/880Từ khóa:
Tân dược, bệnh viện công lập, sản xuất trong nướcTóm tắt
Nghiên cứu mô tả cắt ngang sử dụng số liệu hồi cứu về danh mục thuốc trên 1010 bệnh viện công lập tại Việt Nam nhằm mô tả thực trạng sử dụng tân dược sản xuất trong nước thuộc phạm vi thanh toán quỹ bảo hiểm y tế năm 2017. Kết quả nghiên cứu cho thấy thuốc trong nước chiếm tỷ lệ cao hơn về số khoản mục thuốc (60,13%) so với thuốc nước ngoài và những năm trước đó, nhưng chiếm tỷ lệ thấp hơn về giá trị tiền thuốc sử dụng (32,90%) so với thuốc nước ngoài. Khi phân theo gói thầu/nhóm thầu thì giá trị tiền thuốc trong nước chiếm tỷ lệ cao ở nhóm 3 generic (100%) và nhóm 4 genneric (94,33%) nhưng thấp ở gói biệt dược gốc và nhóm 1, 2 genneric. Theo phân nhóm tác dụng dược lý có 03 nhóm có tổng giá trị tiền thuốc sử dụng cao nhất nhưng có giá trị tiền thuốc trong nước dưới 50% là thuốc điều trị ký sinh trùng, chống nhiễm khuẩn (28,67%); thuốc tim mạch (13,17%); thuốc điều trị ung thư và điều hòa miễn dịch (13,16%). Nhà nước nên có các chính sách thúc đẩy để bệnh viện các tuyến trên tăng cường sử dụng thuốc trong nước, cũng như hỗ trợ, thúc đẩy các cơ sở sản xuất thuốc trong nước sản xuất thuốc mới, các nhóm thuốc còn chiếm tỷ lệ thấp so với thuốc nước ngoài.
Tải xuống
Tải xuống
Đã Xuất bản
Cách trích dẫn
Số
Chuyên mục
Giấy phép
Giấy phép xuất bản số: 150/GP-BTTTT cấp ngày 8/5/2014;
Giấy phép hoạt động báo chí điện tử số 322/GP-BTTTT cấp ngày 15/6/2016.