Kỹ năng nuôi con bằng sữa mẹ và một số yếu tố liên quan đến phát triển, bệnh tật ở trẻ dưới 6 tháng tuổi khám tham vấn dinh dưỡng tại bệnh viện Nhi đồng 2 năm 2019

Các tác giả

  • Nguyễn Thị Thu Hậu Bệnh viện Nhi Đồng 2, Thành phố Hồ Chí Minh
  • Nguyễn Hoàng Nhựt Hoa Bệnh viện Nhi Đồng 2, Thành phố Hồ Chí Minh
  • Trần Thị Hoài Phương Bệnh viện Nhi Đồng 2, Thành phố Hồ Chí Minh
  • Mai Quang Huỳnh Mai Bệnh viện Nhi Đồng 2, Thành phố Hồ Chí Minh

DOI:

https://doi.org/10.51403/0868-2836/2021/460

Từ khóa:

Nuôi con bằng sữa mẹ, chậm tăng chiều cao, chậm tăng cân

Tóm tắt

Nghiên cứu cắt ngang mô tả khảo sát kỹ năng nuôi con bằng sữa mẹ ở 256 trẻ dưới 6 tháng tuổi đến khám dinh dưỡng tại bệnh Nhi đồng 2 năm 2019, yếu tố liên quan đến sự phát triển về thể chất và bệnh tật của trẻ trong 6 tháng đầu sau sinh. Kết quả 29,3% trẻ có tình trạng thiếu cân và suy dinh dưỡng cấp tính với các mức độ khác nhau, 17,2 % thiếu chiều cao và 7% trẻ còi xương. 28,9% trẻ được bú mẹ hoàn toàn, 48,8% bú dặm thêm sữa công thức. 46,9% trẻ có bệnh cấp tính từ sau sinh, 11.3 % mắc bệnh mãn tính. 28,9% trẻ được bú trong 1 giờ sau sanh, 28,2% bú khi có nhu cầu, 93,8% bú cả ngày và đêm. 17.2% có tư thế bú chưa đúng, 24,2% ngậm vú chưa đúng cách, 62,5% cho bú cạn sữa trong ngực. Có mối liên quan giữa sinh non và chậm tăng chiều cao (p = 0,045), bú cạn sữa trong ngực giúp tăng cân tốt (p = 0,023), giảm chậm tăng chiều cao (p = 0,024), tư thế bú đúng và ngậm bắt vú đúng giúp bú cạn sữa trong ngực (p = 0,015 và p = 0,003), bú mẹ hoàn toàn và giảm số đợt bệnh cấp tính (p = 0,02). Vẫn còn nhiều bà mẹ có kỹ năng cho con bú chưa đúng, cần điều chỉnh các kỹ năng mẹ cho bú chưa đúng để giúp trẻ nhận được đủ dinh dưỡng.

Tải xuống

Dữ liệu tải xuống chưa có sẵn.

Đã Xuất bản

22-12-2021

Cách trích dẫn

Hậu, N. T. T. ., Hoa, N. H. N. ., Phương, T. T. H. ., & Mai, M. Q. H. . (2021). Kỹ năng nuôi con bằng sữa mẹ và một số yếu tố liên quan đến phát triển, bệnh tật ở trẻ dưới 6 tháng tuổi khám tham vấn dinh dưỡng tại bệnh viện Nhi đồng 2 năm 2019. Tạp Chí Y học Dự phòng, 31(9 Phụ bản), 244–250. https://doi.org/10.51403/0868-2836/2021/460