Tỷ lệ mang gen bệnh tan máu bẩm sinh (Thalassemia) và một số yếu tố liên quan ở người dân 15-20 tuổi sinh sống tại tỉnh Cao Bằng, năm 2023

Các tác giả

  • Nguyễn Thanh Thủy Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên
  • Lục Thị Hiệp Bệnh viện Đa khoa tỉnh Cao Bằng
  • Nguyễn Phương Sinh Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên
  • Nguyễn Thị Phương Lan Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên
  • Nguyễn Tiến Dũng Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên

DOI:

https://doi.org/10.51403/0868-2836/2025/2201

Tóm tắt

Nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định tỷ lệ mang gen bệnh tan máu bẩm sinh (thalassemia) và một
số yếu tố liên quan ở người dân 15-20 tuổi sinh sống tại tỉnh Cao Bằng, năm 2023. Sử dụng phương pháp
nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích trên 355 người dân từ 15 – 20 tuổi tại tỉnh Cao Bằng từ tháng
9/2021 đến tháng 1/2023. Kết quả cho thấy Tỷ lệ mang gen bệnh Thalassemia chung là 23,9%, người
mang gen bệnh ở nhóm dân tộc Tày chiếm tỷ lệ cao nhất là 27,5%, sau đó là dân tộc Nùng 25,2%, các
dân tộc khác là 15,9%; Tỷ lệ mang gen α-thalassemia ở dân tộc Tày là 19,4%, Nùng 18,7%; các dân tộc
khác là 13,6% trong đó đột biến --αSEA/αα chiếm tỷ lệ cao nhất (60,0%), -α 3.7/αα chiếm tỷ lệ 20,0%; các
đột biến khác chiếm tỷ lệ thấp hơn từ 3,1 – 10,0%; Tỷ lệ mang gen β-thalassemia dân tộc Tày có 7,5%,
Nùng 6,5%; các dân tộc khác là 1,1% trong đó đột biến β41/42/β chiếm tỷ lệ cao nhất 45,5%; β17/β chiếm tỷ
lệ 18,2%, β71/72/β chiếm tỷ lệ 13,6%, các đột biến khác chiếm tỷ lệ thấp hơn 4,5%; Tỷ lệ mang gen trong
nhóm người 15-20 tuổi tại Cao Bằng còn khá cao. Nghiên cứu không phát hiện sự khác biệt về tỷ lệ mang
gen giữa các nhóm dân tộc thiểu số, giới tính, kinh tế hộ gia đình, tiền sử bệnh tan máu, kết hôn cận huyết
và tình trạng di trú.

Tải xuống

Dữ liệu tải xuống chưa có sẵn.

Đã Xuất bản

21-05-2025

Cách trích dẫn

Thanh Thủy, N. ., Hiệp, . L. T. ., Phương Sinh, N. ., Phương Lan, N. T. ., & Tiến Dũng, N. . (2025). Tỷ lệ mang gen bệnh tan máu bẩm sinh (Thalassemia) và một số yếu tố liên quan ở người dân 15-20 tuổi sinh sống tại tỉnh Cao Bằng, năm 2023 . Tạp Chí Y học Dự phòng, 35(1), 126–134. https://doi.org/10.51403/0868-2836/2025/2201

Số

Chuyên mục

Bài báo nghiên cứu gốc